VUSTA: Nâng cao các biện pháp cải tạo rừng, phục hồi rừng tự nhiên góp phần giảm khí nhà kính 

Liên hiệp Hội Việt Nam (VUSTA) vừa tổ chức Hội thảo "Cải tạo rừng, phục hồi rừng tự nhiên góp phần giảm khí nhà kính" tại Hà Nội.

cai-tao-rung-phuc-hoi-rung-tu-nhien-gop-phan-giam-khi-nha-kinh-dulichvn-1-1750918361.jpg
Hội thảo "Cải tạo rừng, phục hồi rừng tự nhiên góp phần giảm khí nhà kính" tại Hà Nội hôm 25/6

TS. Nguyễn Phú Hùng Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam cho biết, rừng đóng vai trò thiết yếu đối với sự sống trên Trái Đất, không chỉ là lá phổi xanh duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái, cung cấp vô vàn tài nguyên quý giá cho con người, mà còn là yếu tố then chốt trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, khả năng hấp thụ và lưu giữ carbon khổng lồ của rừng giúp giảm lượng khí thải nhà kính trong khí quyển, làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu. Bảo vệ và phát triển rừng không chỉ là trách nhiệm mà còn là hành động cấp bách để đảm bảo một tương lai bền vững cho hành tinh của chúng ta. 

Tuy nhiên, trước những áp lực từ phát triển kinh tế và biến đổi khí hậu, nhiều cánh rừng của chúng ta đang đối mặt với tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Đặc biệt, những khu vực rừng trồng độc canh, thiếu đa dạng sinh học, hoặc các diện tích rừng nghèo kiệt đang cho thấy dấu hiệu giảm sút rõ rệt về chức năng và khả năng chống chịu.

Thực trạng này đòi hỏi những giải pháp cải tạo và phục hồi rừng hiệu quả, kịp thời để không chỉ tái tạo màu xanh cho đất trống đồi trọc mà còn nâng cao chất lượng rừng, hướng tới sự đa dạng sinh học và khả năng hấp thụ carbon tối ưu.

Phát biểu tại Hội thảo, PGS. TS. Hoàng Văn Thắng, Viện Nghiên cứu Lâm sinh, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cho biết, hiện nay, có 5 phương pháp chính đang được áp dụng để phục hồi và cải tạo rừng tự nhiên. Các phương pháp này đã được quy định trong Thông tư 29/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (được sửa đổi bởi Thông tư 17/2022) về quy định một số biện pháp lâm sinh phục hồi và cải tạo rừng.

Một là, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên. Là biện pháp lâm sinh phát huy tối đa khả năng tái sinh, diễn thế tự nhiên để phục hồi rừng bằng các biện pháp bảo vệ, chống chặt phá, phòng cháy và chữa cháy rừng, phát dọn dây leo, cây bụi để thúc đẩy thành rừngthời hạn xác định.

cai-tao-rung-phuc-hoi-rung-tu-nhien-gop-phan-giam-khi-nha-kinh-dulichvn-2-1750918361.jpg
TS. Nguyễn Phú Hùng Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo.

Đối tượng là các diện tích chưa đạt tiêu chí thành rừng do khai thác kiệt; nương rẫy bỏ hoang, đất có trảng cỏ, cây bụi xen cây gỗ và bãi bồi cửa sông, vùng ven biển có mật độ cây tái sinh mục đích đạt chiều cao trên 0,5 m lớn hơn 500 cây/ha; đất ngập phèn có cây tái sinh mục đích lớn hơn 1000 cây/ha. Mật độ cây tái sinh mục đích phân bố tương đối đều trên toàn diện tích hoặc có các khoảng trống dưới 1000 m2.

Hai là, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên có trồng bổ sung. Là biện pháp lâm sinh phát huy tối đa khả năng tái sinh, diễn thế tự nhiên để phục hồi rừng bằng các biện pháp bảo vệ, chống chặt phá, phòng cháy và chữa cháy rừng và phát dọn dây leo cây bụi, kết hợp với trồng bổ sung một lượng cây nhất định ở nơi thiếu cây tái sinh mục đích để thúc đẩy thành rừng trong thời hạn xác định.

Đối tượng áp dụng là diện tích chưa đạt tiêu chí thành rừng (rừng do khai thác kiệt; nương rẫy bỏ hoang, đất có trảng cỏ, cây bụi xen cây gỗ và bãi bồi cửa sông, vùng ven biển có mật độ cây tái sinh mục đích có chiều cao trên 0,5m từ 300 cây/ha đến dưới 500 cây/ha đối với rừng phòng hộ, rừng sản xuất hoặc từ 100 cây/ha đến dưới 500 cây/ha đối với rừng đặc dụng, phân bố không đều có diện tích khoảng trống từ 1000 m2 đến dưới 3000 m2); và diện tích tre nứa sau khai thác có tỷ lệ che phủ dưới 20%, có khả năng tự tái sinh phục hồi thành rừng đối với rừng phòng hộ, rừng đặc dụng (trừ phân khu bảo vệ nghiêm ngặt).

Ba là, nuôi dưỡng rừng tự nhiên. Là biện pháp lâm sinh điều chỉnh mật độ, tổ thành loài bằng các biện pháp loại bỏ những cây phi mục đích, phẩm chất xấu, cây dây leo cạnh tranh dinh dưỡng với cây mục đích; giữ lại cây mục đích có phẩm chất tốt nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của rừng.

Bốn là, làm giàu rừng tự nhiên. Là biện pháp lâm sinh kết hợp giữa nuôi dưỡng rừng với trồng bổ sung những cây mục đích với số lượng nhất định, đồng thời giữ lại cây mục đích sẵn có trong rừng.

Năm là, phương pháp cải tạo rừng tự nhiên. Cải tạo rừng tự nhiên là biện pháp lâm sinh thay thế rừng tự nhiên nghèo kiệt có năng suất, chất lượng thấp bằng rừng trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao hơn.

Trong bối cảnh tài nguyên rừng tại Việt Nam đang suy giảm cả về diện tích và chất lượng do tác động của khai thác quá mức, biến đổi khí hậu và mở rộng đất canh tác, việc triển khai các hoạt động cải tạo và phục hồi rừng tự nhiên đã trở thành một chiến lược trọng tâm trong chính sách phát triển lâm nghiệp bền vững ở nước ta. Nhiều chương trình phục hồi rừng đã được thực hiện trên phạm vi cả nước, với sự tham gia của các cơ quan nhà nước, tổ chức phi chính phủ, và các tổ chức quốc tế và địa phương.

Hội thảo khẳng định vai trò trung tâm của khoa học công nghệ và đội ngũ nhà khoa học lâm nghiệp trong công cuộc phục hồi rừng. Những nghiên cứu, mô hình thực tiễn và sáng kiến được trình bày tại hội thảo là nền tảng quan trọng để xây dựng chiến lược phục hồi rừng quốc gia, hướng tới mục tiêu trung hòa carbon, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu.Việc lan tỏa và nhân rộng các mô hình cải tạo rừng thành công là nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi sự chung tay từ nhiều bên: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng.

Việt Phương

Link nội dung: https://dulichvn.net.vn/vusta-nang-cao-cac-bien-phap-cai-tao-rung-phuc-hoi-rung-tu-nhien-gop-phan-giam-khi-nha-kinh-a233430.html